Đặc điểm Cừu Moorschnucke

Cừu Moorschnucken ở Wildfreigehege Bend Grevenbroich

Chúng ăn thực vật hoang dã như cỏ tím moor, cói, cây me chua, nấm, rêu, địa y và cây thân thảo như thạch phổ biến, chuông thạch, thạch xuyên lá, nam việt quất, cây thông và bạch dương. Chúng rất phù hợp với cuộc sống trên các vùng đồng hoang. Nó là rất khỏe mạnh và thậm chí có thể đi bộ qua nước cao đến đầu gối. Nó là thích hợp nhất để bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn và chăn thả gia súc trong các đầm lầy và khu vực ẩm ướt. Thịt của nó được coi là một món ăn ngon, và gọn gàng hơn và sẫm màu hơn so với các giống cừu khác.

Như một kết quả của việc nuôi thâm canh. Chúng có một màu trắng thuần nhất. Cả hai giới đều khuyết sừng với một đầu dài và đôi tai nằm ở một góc. Cấu trúc xương là nhẹ và tinh tế, móng có màu sáng và cứng. Đuôi ngắn một cách tự nhiên. Chiều cao vai của cừu đực từ 55–60 cm (22–24 in), cừu cái: 45–50 cm (18–20 in). Trọng lượng của cừu đực từ 60–70 kg (130-150 lb), cừu cái: 40–50 kg (88-110 lb). Việc chăn nuôi các giống cừu thịt và giảm chăn thả gia súc của vùng đồng hoang đã góp phần vào việc suy giảm dân số của giống cừu này. Thông qua những nỗ lực của các nhà bảo tồn thiên nhiên, các con số của chúng đã tăng lên khoảng 5.000 loài động vật.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.